Thư điện tử, hay email (từ chữ electronic mail), đôi khi được dịch
không chính xác là điện thư, là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các
mạng máy tính.
Email là một phương tiện thông tin rất nhanh. Một
mẫu thông tin (thư từ) có thể được gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông
thường và được chuyển qua các mạng máy tính đặc biệt là mạng Internet.
Nó có thể chuyển mẫu thông tin từ một máy nguồn tới một hay rất nhiều
máy nhận trong cùng lúc.
Ngày nay, email chẳng những có thể
truyền gửi được chữ, nó còn có thể truyền được các dạng thông tin khác
như hình ảnh, âm thanh, phim, và đặc biệt các phần mềm thư điện tử kiểu
mới còn có thể hiển thị các email dạng sống động tương thích với kiểu
tệp HTML.
Phần mềm thư điện tử (email software) là loại phần mềm
nhằm hỗ trợ cho người dùng việc chuyển và nhận các mẫu thông tin
(thường là dạng chữ). Thông tin có thể đưa vào phần mềm thư điện tử
bằng cách thông dụng nhất là gõ chữ bàn phím hay cách phương cách khác
ít dùng hơn như là dùng máy quét hình (scanner), dùng máy ghi hình số
(digital camera) đặc biệt là các Web cam. Phần mềm thư điện tử giúp đỡ
cho việc tiến hành soạn thảo, gửi, nhận, đọc, in, xoá hay lưu giữ các
(điện) thư. Có hai trường hợp phân biệt phần mềm thư điện tử là
- Loại phần mềm thư điện tử được cài đặt trên từng máy tính của người
dùng gọi là email client, hay phần mềm thư điện tử (cho) máy khách. Các
thí dụ loại phần mềm này bao gồm: Microsoft Outlook, Microsoft Outlook
Express, Netscape Comunicator, hay Eudora. Phần mềm thư điện tử này còn
có tên là MUA (từ chữ mail user agent) tức là Tác nhân sử dụng thư. Một
cách gọi tên thông dụng khác của email client là ứng dụng thư điện tử
(email application) nếu không bị nhầm lẫn
- Ngược lại, loại phần mềm thư điện tử không cần phải cài đặt mà nó
được cung ứng bởi các máy chủ (web server) trên Internet gọi là
WebMail, hay Phần mềm thư điện tử qua Web. Để dùng được các phần mềm
loại này thường các máy tính nối vào phải có một máy truy cập tương
thích với sự cung ứng của WebMail. Thí dụ loại này là mail.Yahoo.com,
hay hotmail.com.
Nơi cung ứng phần mềm cũng như phương tiện chuyển thư điện tử gọi là nhà cung ứng dịch vụ thư điện tử (email sevice provider).
Máy
tính làm việc cung ứng các dịch vụ thư điện tử là MTA (từ chữ mail
transfer agent) hay là đại lý chuyển thư. Vì đây là máy chủ nên khi
không bị nhầm lẫn với các loại máy chủ khác thì người ta cũng gọi MTA
là máy chủ hay rõ hơn là máy chủ thư điện tử.
Các dịch vu thư
điện tử có thể được cung ứng miễn phí hay có lệ phí tuỳ theo nhu cầu và
mụch đích của ngưòi dùng. Ngày nay, email thường được cung cấp kèm với
các phương tiện Internet khi người tiêu dùng ký hợp đồng với các dịch
vụ Internet một cách miễn phí.
2. Lợi ích của email so với thư thường
- Thay vì viết thư bằng giấy mực và bút thì người gửi chỉ cần gõ chữ
từ bàn phím của máy tính và biết dùng một phần mềm thư điện tử (email
program).
- Lá thư được gửi trên hệ thống bưu chính là vật liệu không cần máy
nhận hay máy gửi. Trong khi đó, nếu gửi thư điện tử, chỉ có các tín
hiệu điện mã hoá nội dung bức thư điện tử được truyền đi đến máy nhận.
Do đó, chỉ có nội dung hay cách trình bày lá thư điện tử là được bảo
toàn. Trong khi đó, dùng đường bưu điện người ta có thể gửi đi các vật
liệu hàm chứa thêm nội dung hay ý nghĩa khác. Điều này có thể rất quan
trọng đối với nhiều người.
- Vận tốc truyền thư điện tử chỉ vài giây đến vài phút và chi phí rất nhỏ không đáng kể so với gửi qua đường bưu điện
- Dùng thư điện tử thì bất kỳ lúc nào cũng có thể mở phần mềm thư
điện tử ra đọc nên tiện lợi hơn là việc phải bỏ thư ở các thùng thư.
Đồng thời, vì mỗi người dùng thư đều phải nhập mật khẩu vào máy nên thư
điện tử sẽ khó bị người ở chung đọc lén so với thư gửi bưu điện. Nhưng
ngược lại, các tay tin tặc xa lạ có thể xâm nhập vào hệ thống thư điện
tử của cá nhân nếu như các mật mã hay các hệ thống an toàn phần mềm bị
bẻ gãy.
- Khối lượng gửi và nhận thư điện tử có thể nhiều hơn thư bưu điện
rất nhiều lần. Đối với các dịch vụ thư điện tử mới thì dung lượng có
thể lên đến hàng Gbyte như dịch vụ của Gmail chẳng hạn, hay nhiều hơn.
Số thư có thể dự trữ trong dung lượng này tương đương với vài bộ tự
điển bách khoa.
- Các trường hợp thư phá hoại trên hệ thống bưu điện (như là thư có
bột antrax, thư bom, ...) rất hiếm có nhưng có thể gây thương vong.
Ngược lại, hệ thống thư điện tử, không thể gây thương tích mà thường
rất phải đương đầu với nhiều vấn nạn như virus máy tính, các thư nhũng
lạm (spam mail), các thư quảng cáo (advertisement mail) và các thư
khiêu dụ tình dục (pornography mail), đặc biệt là cho trẻ em, thì lại
rất nhiều. Đối với các loại thư độc hại (malicious mail) này người dùng
cần phải cài đặt thêm các tiện ích hay chức năng lọc (sẵn có trong phần
mềm hay phải mua thêm) để giảm trừ. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là
không có công cụ phần mềm nào là tuyệt hảo.
- Các dạng chuyển tiếp (chain mail) trong đó người nhận lại chuyển đi
nội dung lá thư cho một hay nghiều người khác thường cũng phổ biến
trong cả hai hệ thống bưu chính và thư điện tử. Khả năng ảnh hưởng về
thông tin của hai loại này là tương đương mặc dù thư điện tử chuyển
tiếp có nhiều xác suất gây nhiễm virus máy tính.
- Hộp thư là nơi cất giữ các thư từ với địa chỉ hẳn hoi. Tương tự,
trong hệ thống thư điện tử, thì hộp thư này tương đương với phần dữ
liệu chứa nội dung các email cộng vói điạ chỉ của người chủ thư điện
tử. Điểm khác biệt ở đây là hộp thư điện tử sẽ có nhiều chức năng hơn
là việc xoá bỏ các thư cũ.
- Mỗi người có thể có một hay nhiều địa chỉ email (và phải được đăng
ký qua một hệ thống nào đó). Mỗi hộp thư sẽ có một địa chỉ phân biệt
không bao giờ trùng với địa chỉ email khác.
- Như vậy có thể hoàn toàn không nhầm lẫn khi dùng danh từ hộp thư
điện tử hay hòm thư điện tử (email account) để chỉ một phần mềm email
đã được đăng kí dùng để nhận và gửi email cho một cá nhân.
3. Các mệnh lệnh Anh ngữ để đi vào các ngăn chứa thưĐây
thực ra chỉ là các ngăn chứa thư từ đã được phân loại theo tình trạng
của các email cho tiện dùng. Người chủ thư có thể tự mình xếp loại các
mail này hay chúng được xếp một cách tự động (do cài đặt hay do mặc
định).
- Inbox có nghĩa là Hộp thư nhận hay Hộp thư vào: Đây là ngăn đựng các thư mới nhận về.
- Outbox có nghĩa là Hộp thư gửi hay Hộp thư ra: Đây là ngăn đựng các
thư đang chờ được gửi đi. Thông thường, nếu hệ thống email hoạt động
tốt thì các thư nằm trong hộp này chỉ trong thời gian rất ngắn (vài
giây đến vài phút là tối đa). Do đó, ngăn chứa này thường là một ngăn
trống.
- Draft có nghĩa là Ngăn nháp: Để chứa các email chưa hoàn tất hay đã hoàn tất nhưng chủ thư chưa muốn gửi đi.
- Trash, Trash can hay Deleted Item có nghĩa là Ngăn xóa: Còn có thể
gọi là Thùng rác hay Ngăn thư đã xóa. Đây là chỗ dự phòng tạm thời chứa
các email đã xóa bỏ trong một thời gian. Chức năng này tiện lợi để phục
hồi hay đọc lại các thư điện tử cần thiết đã lỡ tay bị xóa.
- Sent, sent Messages hay Sent Item có nghĩa là Ngăn đã gửi: Nơi này dùng để chứa các thư đã gửi.
- Junk hay Bulk có nghĩa là Ngăn thư linh tinh: Đây là nơi chứa các
mail đã được lọc và bị loại ra một cách tự động, còn được gọi là Thùng
thư rác hay Ngăn chứa tạp thư. Thường thì nơi này sẽ chứa các thư quảng
cáo, các thư nhũng lạm, các thư được gởi đến một số lượng lớn địa chỉ
có cùng một nội dung, hay các loại thư độc hại ...
4. Hoạt động của hệ thống email hiện nay có thể dược minh họa qua phân tích một thí dụ như sau
- Nguyễn dùng MUA của mình để soạn một lá thư có địa chỉ người nhận
là Trần với địa chỉ là Tran@b.org. Nguyễn nhấn nút Send và phần mềm thư
điện tử của Nguyễn áp dụng SMPT để gửi mẫu thông tin (lá thư) đến MTA,
hay máy chủ thư điện tử, của Nguyễn. Trong thí dụ thì máy chủ này là
smtp.a.org được cung cấp từ dịch vụ Internet của Nguyễn.
- MTA này sẽ đọc địa chỉ chỗ nhận (tran@b.org) và dựa vào phần
tên miền nó sẽ tìm hỏi địa chỉ của tên miền này, nơi có máy chủ sẽ nhận
email gửi đến, qua Hệ thống Tên miền.
- Máy chủ DNS của b.org là ns.b.org sẽ trả lời về một bản ghi
trao đổi thư từ, đây là bảng ghi chỉ ra cách thức làm thế nào định
tuyến cho email này. Trong thí dụ thì mx.b.org là máy chủ từ dịch vụ
cung ứng Internet của Trần.
- smtp.a.org gửi mẫu thông tin tới mx.b.org dùng giao thức SMTP, điều này sẽ phân phối lá thư đến hộp thư của Trần.
- Khi đọc Trần ra lệnh nhận thư trên máy (MUA) của Trần, điều
này tạo ra việc lấy về mẫu thông tin bằng cách áp dụng giao thức POP3.
Trong
trường hợp Nguyễn không có MUA mà chỉ dùng Webmail chẳng hạn thì bước 1
sẽ không xảy ra tức là MTA của Nguyễn sẽ làm việc trực tiếp. Tưong tự
cho trường hợp Trần không có MUA riêng.
Trước đây, nếu một MTA không
thể gửi tới đích thì nó có thể ít nhất ngừng lại ở chỗ gần với chỗ
nhận. Sự ngừng này sẽ tạo cơ hội để máy đích có thể nhận về các mẫu
thông tin trong thời gian trễ hơn. Nhiều MTA sẽ chấp nhận tất cả mẫu
thông tin từ người gửi bất kì và tìm mọi cách để phân nó về đến máy
đích. Những MTA như vậy gọi là những ngưng đọng thư mở (open mail
relays). Điều này khá cần thiết vì sự chất lượng liên lạc của hệ thống
Internet lúc đó còn yếu.
Ngày nay, do việc lợi dụng trên cơ chế hoạt
động của hệ thống thư điện tử nhiều người đã gửi ra các loại thư vô bổ.
Như là hậu quả, rất ít MTA ngày nay còn chấp nhận các ngưng đọng thư
mở. Bởi vì các thư như vậy rất có thể là các loại thư nhũng lạm.
5. Các giao thức
- SMTP (từ chữ Simple Mail Transfer Protocol) -- hay là giao thức
chuyển thư đơn giản. Đây là một giao thức lo về việc vận chuyển email
giữa các máy chủ trên đường trung chuyển đến địa chỉ nhận cũng như là
lo việc chuyển thư điện tử từ máy khách đến máy chủ. Hầu hết các hệ
thống thư điện tử gửi thư qua Internet đều dùng giao thức này. Các mẫu
thông tin có thể được lấy ra bởi một email client. Những email client
này phải dùng giao thức POP hay giao thức IMAP.
- IMAP (từ chữ Internet Message Access Protocol) -- hay là giao
thức truy nhập thông điệp (từ) Internet. Giao thức này cho phép truy
nhập và quản lý các mẫu thông tin về từ các máy chủ. Với giao thức này
người dùng email có thể đọc, tạo ra, thay đổi, hay xoá các ngăn chứa,
các mẫu tin đồng thời có thể tìm kiếm các nội dung trong hộp thư mà
không cần phải tải các thư về.
- Phiên bản mới nhất của IMAP là IMAP4 tương tự nhưng có nhiều
chức năng hơn giao thức POP3. IMAP nguyên thuỷ được phát triển bởi đại
học Standford năm 1986.
- POP (từ chữ Post Office Protocol) -- hay là giao thức phòng
thư. Giao thức này được dùng để truy tìm các email từ một MTA. Hầu hết
các MUA đều dùng đến giao thức POP mặc dù một số MTA cũng có thể dùng
giao thức mới hơn là IMAP.
Hiện có hai phiên bản của
POP. Phiên bản đầu tiên là POP2 đã trở thành tiêu chuẩn vào thập niên
80, nó đòi hỏi phải có giao thức SMTP để gửi đi các mẫu thông tin.
Phiên bản mới hơn POP3 có thể được dùng mà không cần tới SMTP.
Nguồn : wikipedia.org